Lịch sử Lịch đại Đế Vương miếu

Truyền thống lịch sử

Trong văn hóa Trung Hoa, một yếu tố truyền thống được hình thành trong lịch sử, đó là việc tôn trọng của thế hệ sau dành cho thế hệ đi trước, đặc biệt là các thủ lĩnh dân tộc, vương triều, nhân vật ảnh hưởng lớn tới đất nước. Kính trọng các bậc minh triết, Hoàng đế của các triều đại trong quá khứ là một truyền thống chính trị được tuân theo ở Trung Quốc cổ đại. Có thể kể tới, vào thời Đường Chiêu Tông, đền thờ Hán Chiêu Liệt Đế[Ghi chú 1] được xây dựng và nơi thờ tự ở Trác Châu, Hà Bắc;[4] trong thời Tống Ninh Tông, các quan chức địa phương đã liên tiếp thành lập những Thuấn miếu ở Thiều Châu[Ghi chú 2]Hành Dương, thờ tự Đế Thuấn; triều đại Nhà Kim do người Nữ Chân thành lập vẫn tiếp tục duy trì việc cúng tế cho các Hoàng đế trong quá khứ.[5] Thế kỷ XIII, Nhà Nguyên do người Mông Cổ thành lập cũng kế thừa truyền thống này. Từ Hốt Tất Liệt rồi các Hoàng đế Nguyên Nhân Tông, Nguyên Thái Định Đế, Nguyên Văn TôngNguyên Huệ Tông đều xây dựng những ngôi đền thờ cho các Hoàng đế cổ đại ở vùng đồng bằng miền Trung, lệnh cho dân chúng thờ tự, chẳng hạn như những câu mô tả: năm Nhân Tông Diên Hữu thứ ba, cho sửa chữa lăng mộ của Triều Ân. Tuy nhiên, do địa điểm tế lễ trong các triều đại trước đây không thống nhất, các cuộc thảo luận đã nảy sinh.[6] Người Mông Cổ trong triều đại Nhà Nguyên đã kêu gọi một sự thống nhất lịch sử và thờ tự các dân tộc. Minh Triều Chu Nguyên Chương thời kỳ tiếp theo đã chỉ trích tình trạng này và quyết định xây dựng một ngôi đền thống nhất cho các Đế Vương vào năm Hồng Vũ thứ sáu.[7][8]

Thời Minh

Công viên Bắc Cực Các, nơi đặt Đế Vương miếu tiền đề thời Hồng Vũ.

Lịch đại Đế Vương miếu giai đoạn đầu được xây dựng vào năm Hồng Vũ (洪武) thứ sáu (1373) của triều đại Nhà Minh ở phía Nam núi Khâm Thiên (钦天山), nay là Bắc Cực Các (北极阁), Bắc Kinh, thờ Tam Hoàng Ngũ Đế, Hạ Vũ, Thành Thang, Chu Vũ Vương, Hán Cao Tổ, Hán Quang Vũ Đế, Tùy Văn Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, Nguyên Thế Tổ, tổng cộng có 17 vị Hoàng đế sáng lập.[9] Sau đó bỏ thờ tự Tùy Văn Đế của Nhà Tùy vào năm Hồng Vũ thứ 21 (1388).[10]

Năm 1530, Gia Tĩnh (嘉靖) thứ chín, Minh Thế Tông định lễ, quyết định xây dựng Lịch đại Đế Vương miếu ở Bắc KinhNam Kinh, lệnh các quan chọn địa phương cụ thể. Vào thời điểm đó, quan thần phục vụ ở nhánh hàn lâm là Xuân phường Trung doãn Liêu Đạo Nam đã đề xuất dỡ bỏ tượng Nhị Từ chân quân, đại diện thờ hai nhân vật là Từ Tri Chứng và Từ Tri Ngạc của Nam Đường tông thất thời Ngũ đại Thập quốc trong cung Linh Tế,[Ghi chú 3] chọn làm nơi xây Đế Vương miếu.[11] Tuy nhiên, Bộ Lễ cho rằng diện tích chật hẹp của cung Linh Tế không đủ để xây dựng lại, phản đối đề nghị của quan hàn lâm. Gia Tĩnh Đế đã ra lệnh cho Bộ Công chọn nơi khác để xây dựng, trở thành Bộ phụ trách cụ thể kiến trúc ngôi miếu.[12] Ngày 12 tháng 01 năm 1531, Gia Tĩnh thứ 10, Bộ Công báo cáo việc xây dựng địa điểm của Lịch đại Đế Vương miếu là vị trí cũ của chùa Bảo An ở cửa Phụ Thành (阜成门). Khu đất này được chọn để xây Đế Vương miếu, tiến hành chỉnh sửa mặt bằng, tất cả được thiết kế ngăn nắp, tương xứng và đi thông phương hướng với các bên. Ngày 12 tháng 02 cùng năm, Minh Thế Tông dâng lễ tế cho các vị Đế Vương từ Văn Hoa điện, chính điện được chia thành năm tháp thờ, thờ 16 Đế Vương. Đơn bệ từ Đông sang Tây chia thành bốn bàn thờ, thờ tổng cộng có 37 người. Vào ngày 17 tháng 03 năm Nhâm Dần, Gia Tĩnh thứ 10, Lịch đại Đế Vương miếu tiếp tục được xây dựng, được quản lý bởi Thượng thư Bộ Công Tưởng Dao và Hữu Thị lang Tiền Như Kinh. Đến tháng 05, Bộ Lễ bàn về bài vị thờ tự của Đế Vương miếu, tùy phong và thờ tụng Thái miếu, mở rộng thần bài, chu địa, kim thư của các Đế Vương, cùng Bộ Công tiến hành.[13]

Chín đời Nhà Nguyên, Thế Tổ lãnh đạo thiên hạ, là người sáng suốt nhất, nổi tiếng cai trị. Cái gọi là Di Địch [ám chỉ dân tộc ngoài Trung Nguyên] tiến vào Trung Quốc, cũng là quy luật của mùa Xuân và mùa Thu. Và từ xa xưa, các Đế Vương thường gánh vác đất nước, trung hậu. Thái Tổ [Chu Nguyên Chương] đã thể hiện tấm lòng, nghi lễ thờ tự đã có trăm năm, phù hợp theo hệ thống cũ, đền thờ như cũ.

—Lời của Bộ Lễ Nhà Minh về việc thờ tự Nguyên Thế Tổ.[Ghi chú 4]

Vào tháng 09 năm 1531, Trạng nguyên Diêu Lai thuộc Hàn lâm viện đã tấu trình yêu cầu phế truất thờ tự Nguyên Thế Tổ trong Lịch đại Đế Vương miếu ở Bắc Kinh và Nam Kinh. Bộ Lễ tiến hành xét lại, phản bác yêu cầu và giữ nguyên việc thờ tụng Hốt Tất Liệt. Cũng vào tháng 09, Lịch đại Đế Vương miếu ở Bắc Kinh được hoàn thành, Minh Thế Tông đã khen thưởng bổng lộc, thăng cấp cho Tưởng Dao và Tiền Như Kinh. Năm 1532, Minh Thế Tông đến Lịch đại Đế Vương miếu để tỏ lòng thành kính với các Đế Vương được thờ, là buổi tế tụng chính thức đầu tiên.[14] Trong lễ, học sĩ Liêu Đạo Nam đảm nhiệm nhiệm vụ trình bày bản tụng Cảnh Đức Sùng Thánh tụng (景德崇圣颂), nêu lễ thành đối với các Đế Vương trong lịch sử Trung Hoa. Sau khi hoàn thành, Lịch đại Đế Vương miếu chính thức đặt ở Bắc Kinh, trở thành nơi thờ tự duy nhất của các Hoàng đế ở Trung Quốc, phần ở Nam Kinh bị bỏ hoang.

Ngày 24 tháng 02 năm 1545, Gia Tĩnh thứ 24, Cấp sự trung Bộ Lễ Trần Phỉ yêu cầu Bộ Lễ dừng việc thờ tự Nguyên Thế Tổ, tướng Mộc Hoa Lê, Bác Nhĩ Hốt, Thích Lão ÔnBá Nhan. Với sự cho phép của Thế Tông, các thần vị thờ tự năm người này được thu hồi ở Lịch đại Đế Vương miếu.[15] Suốt thời Nhà Minh (1368 – 1644), Lịch đại Đế Vương miếu xuất phát điểm bắt đầu từ Chu Nguyên Chương, chính thức xây dựng từ Chu Hậu Thông, giữ nguyên vẹn trong các giai đoạn còn lại của triều đại.[16]

Thời Thanh

Sau chiến tranh Minh – Thanh, quân Thanh qua ải Sơn Hải quan, thống nhất Trung Quốc. Thời kỳ đầu, Thuận Trị Đế cầm quyền, đã chỉnh sửa lại Lịch đại Đế Vương miếu, tăng cường tế tự cho các Hoàng đế Nhà Nguyên, Nhà Liêu, Nhà Kim và thờ thêm những vị quan có tài đức của mỗi triều đại, có nhiều điều chỉnh đối với các vị trí thờ tự thần vị.[17] Thuận Trị Đế tiếp tục điều chỉnh một lần nữa vào tháng 06 năm 1660, Thuận Trị thứ 17, danh sách thờ tự có 25 Đế Vương và 39 vị công thần đã được ghi danh thờ tại miếu.[18] Các giai đoạn tiếp theo, Đế Vương miếu có thay đổi tùy từng Hoàng đế. Trong thời Khang Hi Đế, vào tháng 04 năm Khang Hi thứ 60 (1721), Khang Hi đã ra sắc lệnh về lễ nghi và thờ tự Lịch đại Đế Vương miếu.[19] Ngày 06 tháng 04 năm Khang Hi thứ 61 (1722), Khang Hi đã nới lỏng hơn nữa tiêu chuẩn để tôn thờ các vị Đế Vương: thờ tự bất cứ Hoàng đế nào đã từng nắm quyền, trừ người vô đạo giết bề trên, người làm mất nước.[20]

Ngày 11 tháng 12 năm 1722, Khang Hi lệnh cho Thượng thư Bộ Lễ xác định danh sách cuối cùng của Đế Vương các thời Hạ, Thương, Chu, Hán, Đường, Tống, Kim, Nguyên, Minh.[21] Trong thời gian việc thực hiện sắc lệnh lập danh sách thờ tự đang diễn ra thì Khang Hi qua đời vào ngày 20 tháng 12, đến ngày 26 tháng 12 Bộ Lễ mới hoàn thành công việc, có 143 vị Đế Vương và 40 vị quan nổi tiếng đã được thêm vào miếu. Thời điểm đó, người kế vị là Ung Chính đã ra lệnh tuân theo chiếu chỉ của Khang Hi, các tấm bảng thần vị để thờ Hoàng đế và các vị quan nổi tiếng phải được thêm vào chính điện và sảnh phụ của Lịch đại Đế Vương miếu, cử Lý Thân Vương Dận Đào đến chỉ huy sắp xếp Lịch đại Đế Vương miếu, có tổng cộng 164 Đế Vương và 79 vị danh thần được thờ.[22] Năm 1729, Ung Chính thứ bảy, miếu được tu bổ, xây dựng lại. Đến năm 1733, việc xây dựng lại hoàn thành, Ung Chính đã cho khắc dòng chữ Ngự chế trùng tu Lịch đại Đế Vương miếu (御制重修历代帝王庙碑). Vào tháng 02 năm Ung Chính thứ 12 (1734), Ung Chính đã lệnh chỉnh sửa Đế Vương miếu, Quan Đế miếu, Thành Hoàng miếu ở Bắc Kinh, lệnh cho Hàm Thân Vương Dận Bí phụ trách Đế Vương miếu, Càn Long phụ trách Quan Đế miếu, Hòa Thân Vương Hoằng Trú phụ trách Bắc Kinh đô Thành Hoàng miếu.[23][24]

Sơ khai, Minh triều tế tự Đế Vương miếu, thờ Nguyên Thế Tổ nhưng không tế Kim, Liêu. Kim, Liêu cùng Tống phân chia thiên hạ, lý nào không cúng tế. [...] Chư thần Liêu Gia Luật Hạt Lỗ; Kim Hoàn Nhan Oát Lỗ, Oát Li Bất; Nguyên Mộc Hoa Lê, Bá Nhan; Minh Từ Đạt, Lưu Bá Ôn cũng cần thờ.

—Bộ Lễ Nhà Thanh, về việc tế tự đa chủng tộc.[Ghi chú 5][25]

Kế vị Ung Chính là Càn Long, ông dành nhiều quan tâm tới hoạt động của Đế Vương miếu. Năm 1738, Càn Long thứ ba, Càn Long hành lễ tại Lịch đại Đế Vương miếu, viết bản nghi lễ triều đình về lễ tế Đế Vương miếu, nội dung bày tỏ sự tôn trọng đối với các Đế Vương trong lịch sử, hình thức tế tự nghiêm ngặt, rõ ràng.[Ghi chú 6] Năm 1753, Càn Long thứ 18, cửa Đế Vương miếu ghi chữ Cảnh Đức (景德), được ghi thêm chữ Sùng Thánh (崇圣). Năm 1762, Càn Long đã cho xây dựng thêm kiến trúc Đế Vương miếu, do Thượng thư Bộ Lễ Trần Đức Hoa chỉ huy, thay đổi mái ngói của chính điện sang màu vàng ròng. Tháng 03 năm 1764, Càn Long thứ 29, việc xây dựng được hoàn thành, Càn Long đến Đế Vương miếu viết dòng chữ Ngự chế trùng tu Lịch đại Đế Vương miếu, khắc thêm bia đá Cảnh Đức Sùng Thánh ở phía Tây Nam miếu. Trong thời kỳ Càn Long, Triều Thanh đã loại bỏ bài vị của Vạn Lịch Đế, Thái Xương ĐếThiên Khải Đế khỏi Đế Vương miếu, thêm bài vị của Sùng Trinh Đế. Sau Càn Long, Gia Khánh Đế không có chỉnh sử đối với miếu, đến thời kỳ Đạo Quang Đế, chính điện của Đế Vương miếu được xây dựng lại, được chỉ thị tiến hành từ tháng 01 năm 1840, Đạo Quang thứ 20, theo dạng chỉnh sửa, làm mới các vật dụng, màu sắc.[26] Trong thời Nhà Thanh (1644 – 1911), Đế Vương miếu được các Hoàng đế Thuận Trị, Khang Hi, Ung Chính, Càn Long chú ý trong tế tự, đến lần điều chỉnh của Đạo Quang cũng là lần cuối của thời đại phong kiến Trung Quốc.[27]

Vào ngày 31 tháng 10 năm 2002, quận Tây Thành đã thống kê tất cả các nghi lễ tế thần tại Lịch đại Đế Vương miếu từ năm Gia Tĩnh thứ 11 của Nhà Minh (1532) đến năm Tuyên Thống thứ ba của Nhà Thanh (1911), có 662 lễ tế đã được tổ chức trong suốt lịch sử 380 năm xuyên suốt thời phong kiến Minh Thanh của Trung Quốc. Trong đó, các Hoàng đế đã tự thân tổ chúc tế lễ 16 lần và cử các quan đến tế 646 lần.[28][29]

Thời kỳ chịu hư hại

Cổng bài phường của Lịch đại Đế Vương miếu, ảnh đen trắng chụp năm 1918.

Năm 1912, năm đầu tiên của Trung Hoa Dân Quốc, Hoàng đế Nhà Thanh thoái vị và việc tế tự tại Lịch đại Đế Vương miếu kết thúc. Đế Vương miếu trở thành một vị trí chịu sự quản lý của chính quyền Dân Quốc. Cũng trong giai đoạn này, miếu được sử dụng làm nơi tạm trú, chiếm đóng của nhiều đơn vị khác nhau. Năm 1922, Hội Cải tiến Giáo dục Trung Hoa[Ghi chú 7] đã mượn sử dụng Đế Vương miếu. Năm 1925, sau khi Tôn Trung Sơn qua đời vì bạo bệnh ở Bắc Kinh, các đơn vị liên quan đã tổ chức tang lễ tại điện Cảnh Đức Sùng Thánh, chính điện trung tâm của Lịch đại Đế Vương miếu.[30][31] Vào ngày 22 tháng 05 năm 1929, Sự vụ viên quản lý Đế Vương miếu đã báo cáo về việc ngôi miếu được cho Hội Cải tiến Giáo dục Trung Hoa mượn để sử dụng. Sau đó, ba ngôi nhà ở sân phía Đông được sử dụng bởi Đảng bộ thành phố Bắc Bình của Quốc dân đảng Trung Quốc.[Ghi chú 8] Ngoài ra, đây còn là nơi sử dụng của quân đội Quốc dân Đảng, hội trường, nhà bảo vệ, trụ sở. Ngày 30 tháng 08 năm 1929, Quốc thuật quán Hà Bắc[Ghi chú 9] chiếm đóng và sử dụng Cảnh Đức môn, điện Cảnh Đức Sùng Thánh. Vào ngày 06 tháng 09 cùng năm, Quốc thuật quán Hà Bắc đã viết thư cho Sở Quản lý miếu đền Bắc Bình của Bộ Nội chính, đề nghị được mượn hai khu vực đang chiếm đóng. Tuy nhiên, Sở Quản lý chỉ cho phép mượn sân sau của Đế Vương miếu và yêu cầu Quốc thuật quán bảo vệ di tích. Thời gian tiếp theo, Đế Vương miếu được mượn sử dụng bởi cả Quốc thuật quán, Hội Cải tiến Giáo dục và cơ quan Quốc dân Đảng, quân đội Trung Hoa Dân Quốc.[32][33]

Vào tháng 07 năm 1931, Viện Nghiên cứu Quốc lập Bắc Bình đã khảo sát và lập bản đồ cụ thể về Đế Vương miếu. Vào thời điểm đó, trong Đế Vương miếu, có ba cơ quan sử dụng là Hội Cải tiến Giáo dục Trung Hoa, Quốc thuật quán Hà Bắc và Trường thiếu niên Bắc Bình. Vào năm 1934, Bộ Nội chính đã chuyển vị trí Đế Vương miếu sang cho Chính phủ thành phố Bắc Bình và đặt dưới sự quản lý của Sở Quản lý miếu đền. Sau đó, các bên tiếp tục tạm sử dụng và mở thêm hoạt động thăm viếng Đế Vương miếu. Năm 1935, Sở Quản lý tiến hành di chuyển bảo quản thần vị của 188 Hoàng đế và 79 vị quan trong chính điện Đế Vương miếu. Các phần được lưu giữ bởi Hội Cải tiến Giáo dục Trung Hoa.[33] Sang năm 1937, ngôi miếu được trùng tu bởi Sở Quản lý. Trong thời Chiến tranh Trung – Nhật, Trường học thiếu niên Bắc Bình được chuyển một phần đến Quế Lâm, Quảng Tây. Trong gian đoạn Nhật Bản chiếm đóng, quân đội Nhật kiểm soát vị trí Đế Vương miếu. Năm 1941, Chính quyền Uông Tinh Vệ đã thay đổi khu vực ngôi miếu thành Trường trung học Nữ sinh thứ ba Bắc Bình.[34] Năm 1945, Chính phủ Quốc dân tái kiểm soát Bắc Bình. Đến năm 1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập, Trường trung học Nữ sinh số ba Bắc Kinh tiếp tục hoạt động tại vị trí của Đế Vương miếu. Năm 1972, Bắc Kinh đã giải thể trường nữ sinh, và thành lập Trung học số 159 Bắc Kinh.[35]

Từ ngày 02 tháng 02 đến ngày 26 tháng 02 năm 1953, Ủy ban Quản lý Di tích văn hóa Bắc Kinh đã khảo sát và lập bản đồ Lịch đại Đế Vương miếu, các cổng bài phường[Ghi chú 10] đã được phá bỏ sau khi khảo sát. Vào ngày 10 tháng 06, Ủy ban Quản lý công bố một quy hoạch. Trong cuộc Đại nhảy vọt năm 1958, các trụ sắt và đồng trong ngôi miếu đã được quyên góp để làm thép. Sau khi Đại Cách mạng Văn hóa nổ ra, vào năm 1966, tượng đài đang tháo dỡ trước ngôi miếu đã bị Hồng vệ binh phá hủy.[36] Trong thời kỳ này, thần vị của các Hoàng đế, danh thần được thờ tự trong Đế Vương miếu bị phá hỏng phần lớn, chuyển thành băng ghế ngồi hoặc vật liệu gõ sử dụng trong đời sống thường ngày. Năm 1976, động đất Đường Sơn gây ảnh hưởng khiến cổng miếu nghiên đổ, chính điện, bốn gian bia và các công trình khác đều hư hại nặng.[37] Trong suốt khoảng thời gian từ thời Trung Hoa Dân Quốc cho đến trước thời mở cửa Trung Quốc (1912 – 1978), Đế Vương miếu chịu nhiều hư hại vì các cuộc xung đột, chiến tranh và thiên tai; đồng thời ít nhận được sự bảo tồn.[38]

Trùng tu thời hiện đại

Biển ghi Lịch đại Đế Vương miếu, Đơn vị di tích văn hóa bảo vệ trọng điểm cấp Quốc gia.

Năm 1978, Trung Quốc mở cửa, bắt đầu thời đại cải cách và kiến thiết phát triển đất nước. Trong kỷ nguyên này, văn hóa Trung Hoa được giữ gìn, trong đó có việc bảo tồn, tu bổ lại các công trình kiến trúc.[39] Năm 1979, Lịch đại Đế Vương miếu được công bố là một trong những nơi thuộc đơn vị bảo vệ di tích văn hóa của Bắc Kinh.[Ghi chú 11][40] Ngày 24 tháng 05 năm 1983, Cục Di sản văn hóa quận Tây Thành đã trình lên Chính phủ Nhân dân quận Tây Thành bản báo cáo về việc tu bổ Đế Vương miếu, thành lập bảo tàng quận Tây Thành, đề nghị chuyển vị trí của Trường trung cấp số 159 Bắc Kinh để giữ nguyên tính độc lập của miếu. Vào ngày 20 tháng 05 năm 1993, Cục Di sản văn hóa quận Tây Thành đã đệ trình yêu cầu sửa chữa khẩn cấp ngôi miếu, sử dụng 200.000 nhân dân tệ để chỉnh sửa. Năm 1985, Đế Vương miếu tiếp tục được yêu cầu trùng tu, bắt đầu tiến hành từ năm 1988, với ngân sách được chuyển cho các dự án sửa chữa. Ban đầu, năm 1994, các công trình kiến ​​trúc cổ như đại điện, phối kết hợp phía Tây, bia đài được sửa chữa khẩn cấp. Năm 1995, các kiến ​​trúc như cổng và kho lưu trữ được trùng tu lại theo dáng vẻ ban đầu. Từ đó, các phần nối tiếp nhau dần được sửa chữa, đồng thời, di dời Trường Trung học số 159 Bắc Kinh. Năm 1996, Lịch đại Đế Vương miếu được công bố là đơn vị di tích văn hóa được bảo vệ trọng điểm cấp Quốc gia đợt thứ tư.[Ghi chú 12][41] Ngày 28 tháng 06 năm 1999, tấm bia hạ mã[Ghi chú 13] được khai quật từ miếu. Vào tháng 07 năm 1999, các bức tường miếu đã được sửa chữa và hoàn thành nhà vệ sinh công cộng phía sau. Ngày 22 tháng 12 cùng năm, công trình sửa chữa Lịch đại Đế Vương miếu chính thức được hoàn thành, nghiệm thu.

Trong giai đoạn tu bổ lại Đế Vương miếu, những hoạt động văn hóa, giải trí đồng thời được tổ chức. Tháng 10 năm 1991, Học viện Điện ảnh Bắc Kinh đã quay bộ phim ca nhạc truyền hình My year of 1997 (我的1997) của đạo diễn Nghệ Kính trong Đế Vương miếu. Tháng 05 năm 1992, bộ phim Ly hôn (离婚) do Xưởng phim Bắc Kinh sản xuất được quay tại miếu.

Vào ngày 15 tháng 05 năm 2000, Cục Di sản văn hóa thành phố Bắc Kinh đã hỗ trợ tiến hành công tác khôi phục di tích văn hóa Lịch đại Đế Vương miếu, giao cho quận Tây Thành quản lý, và bảo tàng được mở cửa sau khi tu bổ. Sang năm 2001, giai đoạn đầu tiên của dự án tu bổ Đế Vương miếu bắt đầu. Đến năm 2004, giai đoạn một đến giai đoạn ba của dự án sửa chữa đã hoàn thành. Cũng trong giai đoạn này, Trường Trung học số 159 Bắc Kinh chính thức được chuyển ra khỏi khu vực, quận Tây Thành tổ chức lễ bàn giao công trình, giao cho cơ quan di tích văn hóa vào, đưa miếu trở về độc lập nguyên trạng.[42] Năm 2004, Lịch đại Đế Vương miếu mở cửa tham quan, được chính thức đặt tên là Viện bảo tàng Lịch đại Đế vương miếu Bắc Kinh (北京历代帝王庙博物馆). Vào tháng 01 năm 2019, Đơn vị Bảo tồn di sản văn hóa quan trọng Quốc gia tiến hành bắt đầu công việc tu bổ quy mô lớn thêm một lần nữa. Trong giai đoạn 2019 – 2020, Đế Vương miếu được tạm đóng cửa tu bổ, tập trung hoàn thành tỉ mỉ, phục vụ khách du lịch,[43] chính thức hoàn thành đi vào hoạt động từ ngày 24 tháng 12 năm 2020.[44]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch đại Đế Vương miếu http://theory.people.com.cn/n/2013/0812/c40531-225... http://news.sina.com.cn/c/2003-01-29/0411891526.sh... http://news.sina.com.cn/o/2005-05-27/20416008678s.... http://tech.sina.com.cn/d/2005-05-30/0834620970.sh... http://wwj.beijing.gov.cn/bjww/362771/362779/dspqg... http://wwj.beijing.gov.cn/bjww/resource/cms/articl... http://wwj.beijing.gov.cn/bjww/resource/cms/articl... http://wwj.beijing.gov.cn/bjww/resource/cms/articl... http://www.npc.gov.cn/wxzl/gongbao/2015-08/10/cont... http://www.gov.cn/guoqing/2014-07/21/content_27211...